Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm "linh hồn". Người Việt và một vài dân tộc Đông Nam á còn tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt cho rằng con người chỉ có 3 hồn, nhưng vía thì nam có 7, còn nữ có 9. Hồn vía là sản phẩm của trí tuệ bình dân với những con số 3-7-9 ước lệ (sản phẩm của truyền thống coi trọng những con số lẻ của người Việt). Tuy nhiên, dần dần người ta tìm ra cách giải thích ý nghĩa của các khái niệm và những con số này. Theo đó , vía là cái làm hoạt động các quan năng - những nơi có thể tiếp xúc với môi trường xung quanh. Đàn ông có 7 vía cai quản 7 lỗ trên mặt : hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Phụ nữ thì có thêm hai cái vía cai quản nơi sinh đẻ và nơi cho con bú. Ba hồn, theo một cách giải thích uyên bác, gồm tinh, khí và thần. Tinh là sự tinh anh trong nhận thức (nhờ các quan năng, các vía mang lại). Khí là khí lực, là năng lượng làm cho cơ thể hoạt động. Thần là thần thái, là sự sống nói chung. Như vậy, từ xác đến vía, từ vía đến tinh, từ tinh đến khí, từ khí đến thần là cả một chuỗi xích với mức độ trừu tượng và tầm quan trọng tăng dần.
Hồn vía được người xưa dùng để giải thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm, hiện tượng ngủ mê, ngất, chết,... Trong hồn và vía thì vía phụ thuộc vào thể xác : có người lành vía, người dữ vía, có người yếu vía, người cứng vía,...Cho nên khi gặp người có vía độc khi chạm vía thì phải đốt vía, trừ vía, giải vía,... khi người chết thì vía hòa vào thể xác mà tiêu tan. Hồn trừu tượng hơn nên được xem là độc lập với thể xác. Hiện tượng ngủ mê được dân gian giải thích là hồn lâm thời lìa thể xác để đi chu du. Khi ốm nặng ngất đi bất tỉnh nhân sự thì có tục gọi hồn, hú hồn. Hồn của người này (đã chết lâu) có thể nhập vào xác của người kia (mới chết sinh ra chuyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt (truyện cổ tích ). Khi chết thì hồn lìa khỏi xác mà ra đi.
Chết tức là cơ thể từ trạng thái động trở thành tĩnh, cho nên theo triết lí âm dương thì hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm phủ). Đó là một thế giới bên kia. ở vùng nông nghiệp sông nước này thì "thế giới bên kia" cũng là nơi sông nước, ngăn cách chúng ta bằng chín suối (9 - con số lẻ ước lệ biểu thị số nhiều); tới đó phải đi bằng thuyền.Thời Đông Sơn, người chết được chôn trong những quan tài bằng thân cây đẽo theo hình thuyền. ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và suốt miền duyên hải Trung Bộ còn lưu giữ nghi lễ "chèo đưa linh" - hội các bà múa điệu chèo đò và hát những câu tiễn đưa linh hồn người chết về nơi chín suối.
Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở nơi chín suối, nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho cháu con là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở nhiều dân tộc Đông Nam á, nhưng, theo quan sát của nhà dân tộc học người Nga G.G. Stratanovich thì nó phổ biến và phát triển hơn cả ở người Việt. Đối với người Việt, nó gần như trở thành một thứ tôn giáo; ngay cả những gia đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà. Người miền Nam gọi là Đạo Ông Bà.
Khác với người phương Tây coi trọng ngày sinh, trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam coi trọng hơn cả là việc cúng giỗ vào ngày mất (kị nhật), bởi lẽ người ta tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Ngoài ngày giỗ thì việc cúng tổ tiên còn được tiến hành đều đặn vào các ngày sóc vọng (mồng một, ngày rằm), dịp lễ tết và bất kỳ khi nào trong nhà có việc : để bá cáo tổ tiên (dựng vợ gả chồng, sinh con.... ); để cầu tổ tiên phù hộ (làm nhà, đi xa, thi cử....); để tạ ân (thi đỗ, đi xa về bình yên....).
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở gian giữa - nơi trang trọng nhất. Người Việt quan niệm dương sao âm vậy cho nên cúng tổ tiên bằng cả đồ ăn lẫn đồ mặc, đồ dùng, tiền nong (làm bằng giấy, gọi là vàng mã). Cùng với đồ ăn đồ mặc là hương hoa, trà rượu. Rượu (rượu gạo) có thể có hoặc không, nhưng li nước lã thì nhất thiết không thể thiếu. Nhất thiết có, vì nó đơn giản nhất, nhà nào, lúc nào cũng sẵn; nhất thiết có, còn vì ý nghĩa triết lí : nước là thứ quý nhất (sau đất) của dân nông nghiệp lúa nước. Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã được đem đốt, chén rượu cúng đem rót xuống đống tàn vàng - có như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế. Hương khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất - trước mắt ta là một sự hòa quyện lửa - nước (âm dương) và trời - đất - nước (tam tài) mang tính triết lí sâu sắc !