Trang ChínhPortalGalleryTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Chào bạn! đây là diễn đàn mới, có thể bạn chưa có nich, vậy hãy đăng ký nhanh làm thành viên (chỉ mất 1 phút)
Nếu bạn đã có tài khoản rồi thì đăng nhập ngay nào! Làm thành viên mới được ưu tiên nhiều thứ ^^
Quên mật khẩu click vào đây

Gặp khó khăn khi đăng ký tài khoản! hãy Chat với Admin nhờ tạo nich dùm

Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Hỏi đáp Yo Shop
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 [Game] Pikachu online (Trúc xanh)
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Eej in the dream ( thật cảm động ToT)
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Cry cry T-ara
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Thủy Tiên vẫn cực "hút" với trang phục kín đáo
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 [BLOG] Ngã...
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Nhật ký của mẹ
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Cùng treo avata ủng hộ Trường Sa - Hoàng Sa - Việt Nam
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Thu cuối
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 1309443216336660343_130_130 Hỏi đáp về Box Bàn tròn Yo

 Yoofam :: YOO! PARK :: Tôn giáo :: Phật giáo ::Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng Pháp
Bi.KhìZ
Mod - quan lại
Mod - quan lại
Bi.KhìZ
http://bikhiz.come.vn/
Vip Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 13097341321367109117_130_130
Bài gửi Bài gửi : 626
Tiền do Tiền do : 10
Tiền na Tiền na : 7166
Thích Thích : -1

Xem phòng tài sản
Huy chương:

Vật phẩm mới:

Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp Empty
Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp 13094433711435707121_130_130Sat Jul 30, 2011 10:44 pm

Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng  Pháp Hinh%20su%20to
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG NGỘ CHÂN TỬ (1901-1988)
( HÒA THƯỢNG KHAI SƠN CHÙA HOẰNG PHÁP )

Hòa
thượng Ngộ Chân Tử thế danh là Trần Rinh, sinh ngày mùng 3 tháng 3 năm
Tân Sửu (1901), tại tỉnh Thái Bình trong một gia đình Nho học. Thân phụ
là cụ Trần Quán, thân mẫu là cụ Trần Thị Phược. Ngài là anh cả trong số
năm anh em (3 trai, 2 gái).
Sớm
hấp thụ và thâm hiểu Nho học từ thời niên thiếu, khi trưởng thành ngài
chuyển sang nghiên cứu Phật học theo sự hướng dẫn của Sư Tổ Quang Huy.
Nhờ túc căn sẵn có, lại thêm siêng năng nghiên cứu; nên không bao lâu
ngài đã thâm nhập Phật pháp, nhận thấy nhân sinh đa hoạn, thế sự vô
thường, bả lợi danh như trò ảo hóa, mạng sống thật mong manh ngắn ngủi.
Như lời Tổ Quy Sơn đã dạy :




Sáng còn đó đến giờ chiều mất,
Sát na qua một giấc đời sau.
Ví như sương mốc sáng nào,
Ánh dương xuất hiện biến vào hư không.
Cây bên bờ dây trong thành giếng,
Không bao giờ miên viễn dài lâu.
Niệm niệm mau chóng nhiệm mầu,
Chỉ trong hơi chuyển bắt đầu lai sinh.

Do
vậy ngài nghĩ mình phải sống như thế nào cho xứng đáng không uổng một
kiếp người. Vì “làm người chỉ xứng với danh nghĩa con người chừng nào
người ta đấu tranh để thắng thiên nhiên, cả nội giới lẫn ngoại giới.
Chinh phục ngoại giới là một công trình vĩ đại, nhưng chinh phục được
nội giới lại còn vĩ đại hơn ! Hiểu được những định luật chi phối các vì
sao và các hành tinh khác là một điều hay, nhưng hiểu được những định
luật chi phối những tham vọng, tình cảm và ý chí của con người còn hay
và khó gấp bội phần”. Do đó ngài quyết tâm hướng tâm về đạo giải thoát
của Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni, để tìm cầu chân lý. Sau một thời gian
tầm sư học đạo ngài đã gặp được Tôn Sư Hư Không Tử thường du hóa tha
phương, hành đạo theo hạnh Độc giác và chuyên giảng kinh hóa độ quần mê.
Với lời giảng thanh thoát và dung mạo uy nghiêm, biểu thị một bậc chân
tu thoát tục, Tôn Sư đã mau chóng cảm hóa ngài. Vào ngày mùng 8 tháng 2
năm Kỷ Mùi, ngài được Tôn Sư trao truyền quy giới với pháp danh Ngộ Chân
Tử. Sau đó ngài đã đắc pháp với cụ Tổ chùa Bà Đá – Hà Nội.

Năm
Kỷ Mùi (1919), trên bước đường vân trình theo thầy học đạo, ngài đã
được nhân duyên chiêm bái nhiều nơi cổ tích danh lam. Khi qua Yên Tử,
lúc đến Côn Sơn, rồi Non Nước, Tam Đảo, Tản Viên, Hương Tích, chùa Thầy,
đều là những thắng địa cho việc tọa thiền tu tập.

Năm
1927, ngài xin phép thầy trở về trùng tu chùa làng tại Cao Mại, Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình và thỉnh Tôn Sư đến giảng kinh. Cao đức của Tôn Sư
và nhiệt tâm của ngài đã chuyển hóa gia đình quy hướng Phật đạo, đồng
tâm xả tục, phát nguyện trai giới tu hành, đem hết tài sản ruộng vườn
hiến cúng Tam Bảo để mở mang Phật sự.

Từ
năm 1929 đến năm 1932, ngài đến trùng tu các chùa Quan Âm tỉnh Kiến An;
chùa làng Úc Gián huyện Kiến Thụy; chùa Văn Đẩu huyện An Lão; chùa Kiền
Bái, chùa Côn Sơn, chùa Đỗ Xá huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; chùa Phù
Cốc, chùa Khánh Vân phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Năm
1935, ngài mua đất tại Kiến An và sáng lập chùa Hoằng Pháp độ chúng tu
hành, hoằng truyền giáo pháp.Trải qua một thời gian dài tu hành, ngài
nhận thấy con đường đến Phật quả phải thực hành Bồ tát hạnh và lấy lục
độ Ba la mật làm pháp tu căn bản. Do vậy, năm 1938, để thực hiện tinh
thần bố thí Ba la mật, ngài đã thành lập Viện Dục Anh tại tỉnh Kiến An,
thu nhận các trẻ em nghèo khổ, mất cha hoặc mất mẹ, thiếu tình thương về
nuôi dạy cho ăn học thành tài. Ngoài việc nuôi dạy cô nhi ra ngài còn
mở thêm tiểu thủ công nghiệp, để giúp đỡ những người nghèo khó có phương
tiện sinh sống. Việc làm này được chính quyền đương thời và chư tôn
thiền đức hết sức tán thán và ủng hộ, vì nó đã thể hiện được tinh thần
từ bi cứu khổ của đạo Phật. Như lời một vị Sa môn đã ca ngợi :




Đến thăm Hoằng Pháp Dục Anh đường
Cảnh đẹp nhờ tay khéo chủ trương
Lũ trẻ theo duyên bao kiếp lại
Một thầy đủ phúc mấy lần đương
Quý thay ngọc ẩn sau mình vải
Vui thực vàng phô trước mắt thường
Chúc nguyện chùa này ngày thịnh vượng
Đàn em tắm mát nước cành dương.

Năm
1945 (Ất Dậu), chiến tranh Pháp – Nhật xảy ra trên quê hương, nạn đói
tràn lan miền Bắc, thây chết đầy đường, tiếng khóc than như xé ruột.
Đứng trước thảm cảnh tang thương của đồng bào, ngài đã vận động các cơ
quan từ thiện và những nhà hảo tâm tiếp sức với chùa, tổ chức cứu tế xã
hội giúp đỡ cơm áo thuốc men cho những người đói, bệnh. Hằng ngày, ngài
cùng với bổn đạo kéo xe đi nhặt các tử thi xấu số không người thừa nhận
về mai táng.

Năm
1953, ngài mua hai mẫu đất tại tỉnh Hải Phòng, mở tùng lâm tu viện nay
là chùa Phổ Chiếu, và lập thêm Viện Dưỡng Lão giúp đỡ người già yếu có
nơi an dưỡng, tu niệm.

Năm
1955, với mục đích hoằng dương Phật Pháp đến khắp mọi miền, Hòa thượng
đã hành đạo đến miền Nam qua các nơi như Gò Công, Cai Lậy, Bến Tre, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Châu Đốc.

Năm
1957, nhận thấy Gia Định là nơi thuận duyên trong việc hành đạo, ngài
liền mua sáu mẫu đất tại xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, sáng lập chùa Hoằng
Pháp, làm nơi tu hành và hoằng dương Phật Pháp, tiếp độ Tăng chúng,
hướng dẫn Phật tử tu học.

Năm
1965, trước cảnh màn trời chiếu đất, nhà tan cửa nát của đồng bào bị
chiến tranh tàn phá tại Đồng Xoài, Thuận Lợi, Hòa thượng đã đón nhận 60
gia đình gồm 361 nhân khẩu về chùa nuôi ăn trong 8 tháng. Sau đó, xây
cất khu định cư gồm 55 căn nhà vách tường mái tôn cấp cho đồng bào với
đầy đủ các đồ dùng cần thiết trong gia đình.Năm 1968, ngài thành lập
Giáo Hội Đạo Tràng Thiền Học, nhằm mục đích mở rộng việc truyền bá giáo
lý đạo Phật đến khắp mọi miền đất nước. Ngài cũng đã tiếp nhận và trùng
tu ngôi chùa Thiện Phước tọa lạc tại số 192/11 đường Nguyễn Trãi, quận
5, Sài Gòn làm nơi giảng kinh thuyết pháp, phổ biến kinh sách.

Cũng
năm 1968, chiến tranh vẫn tiếp diễn tàn khốc trên quê hương đất nước,
những trẻ thơ mất cha lạc mẹ bơ vơ không nơi nương tựa hoặc nghèo đói
thất học ngày càng nhiều. Một lần nữa, ngài lại thành lập Viện Dục Anh
tại xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, tiếp nhận cô nhi và bần nhi từ 6 đến 8
tuổi, khoảng 355 em, nuôi dạy miễn phí, rèn luyện đức trí, thể dục để
trở thành người hữu dụng cho đất nước trong tương lai.

Năm
1974, mặc dù tuổi đã cao, nhưng với hạnh nguyện từ bi vô lượng, ngài đã
mua 45 mẫu đất tại ấp Phú Đức, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh, dự định
thực hiện một chương trình xây dựng làng cô nhi Việt Nam với đầy đủ
phương tiện cho các em sinh hoạt và một đền thờ quốc tổ Hùng Vương để
nhắc con cháu nhớ đến công cuộc mở nước và dựng nước của các vua Hùng
oanh liệt thuở trước. Công việc đang được tiến hành xây dựng thì đến
tháng 4 – 1975 đất nước được thống nhất, ngài đã hiến số đất đó cho Ban
Quản trị khu kinh tế mới sử dụng, hiện nay là nông trường Lê Minh Xuân.

Từ
sau 1975, Hòa thượng vẫn tiếp tục những công tác từ thiện xã hội cho
đất nước. Mặc dù tuổi cao sức yếu và kinh tế eo hẹp, Hòa thượng vẫn đóng
góp hàng tháng vào trường Cao cấp Phật học và trong cuộc hỏa hoạn ở chợ
nhỏ phường 24 quận 1 đường Nguyễn Cảnh Chân, TP. Hồ Chí Minh, ngài đã
cứu trợ 3 đợt cho 31 hộ tại đó.

Với
tâm nguyện hoằng pháp để giác ngộ nhân sinh, mặc dù bận rộn rất nhiều
công tác Phật sự và từ thiện xã hội, Hòa thượng cũng vẫn không quên việc
truyền bá chánh pháp, ngài đã biên soạn một số kinh sách ấn tống như :


1) Kinh Nhật tụng (soạn riêng cho chùa tụng đọc)
2) Nghi luật tu trì thiết yếu
3) Quy giới hành trì
4) Sự tích nhân quả báo ứng
5) Tuyên dương diệu pháp
6) Đạo giải thoát
7) Tuyên dương chánh pháp
8) Trên đường hành đạo
9) Khóa niệm tùy thân
10) Lược sử Phật Tổ

Suốt
cuộc đời hành đạo từ Bắc chí Nam, Hòa thượng đã cống hiến trọn đời mình
cho đạo pháp và dân tộc. Thật đúng với câu “xả phú cầu bần, xả thân cầu
đạo” vì Hòa thượng ăn thì cơm hẩm, mặc thì áo bô, có những lúc thấy dân
tình đói khổ, Hòa thượng đã nhịn bớt phần mình, chỉ dùng rau luộc muối
mè và bảo đồ chúng phải thật tiết kiệm, để giúp đỡ cho những người nghèo
khổ.

Quanh
năm suốt đời ở túp lều tranh, vách đất, nhưng mang trong lòng một hoài
bão hoằng pháp lợi sinh. Dầu đến lúc gần lìa cõi tạm, vẫn còn chưa thỏa
nguyện bình sinh. Mỗi khi các đệ tử xa gần về thăm là ngài cứ nhắc nhở :
“Hãy tinh tấn tu hành, chuyên cần niệm Phật đừng để vọng niệm theo trần
cảnh. Vẫn biết nhị đế phải dung thông, nhưng trong cái tùy duyên với
muôn nghìn phương tiện thiện xảo ấy, các con đừng để bị nhận chìm trong
tục đế mà phải như đóa sen thanh khiết nơi vùng bùn lầy nước đục. Tuy
bất cứ hoàn cảnh hay trạng huống nào vẫn xứng đáng với con giòng họ
Thích, đừng phản bội lại lý tưởng của chính mình”.

Năm
1986, tuổi đã quá cao, sức người có hạn, đã mang nhục thân nên có cái
hoạn của nhục thân. Hòa thượng lâm bệnh và mặc dù đã chạy chữa nhiều
phương, nhưng bệnh tình vẫn bất tăng bất giảm. Biết mình sắp rời xa Đạo
Tràng, môn chúng, Hòa thượng đã nhắn nhủ đủ điều, bảo ban căn kẽ. Trước
đó một tuần, Hòa thượng không chịu tiếp thuốc men và bảo : “Hãy để tôi
về, đừng nuối tiếc gì nữa”. Ngài đã an nhiên thị tịch lúc 13 giờ 30 phút
ngày 16 tháng 10 năm Mậu Thìn tức ngày 26-11-1988 tại chùa Hoằng Pháp,
trụ thế 88 năm và được 65 tuổi đạo.




Đất thảm trời sầu Hòa thượng quy
Đau lòng Phật tử với Tăng Ni
Nhớ thương Đại lão tâm Bồ tát
Kính mến cao Tăng hạnh đại bi
Giáo lý in kinh rèn đệ tử
Đạo vàng lập trại cứu cô nhi
Đại hiền rũ thoát nơi trần tục
Nghĩa nặng ơn sâu đức độ trì

 Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 

 Similar topics

-
» Vài Nét Về Chùa Hoằng Pháp
» 11 Phương Pháp để giữ Kỷ luật trong lớp
» [Game] Trò chơi pháp thuật
» Ai đặt tiêu chuẩn cho bạn ????
» [Game] Tiêu diệt Zombie
Yoofam
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Yoofam :: YOO! PARK :: Tôn giáo :: Phật giáo :: Tiểu sử Sư Tổ của Chùa Hoằng Pháp-